Cấp cứu khẩn cấp

024 3834 3181

Phụ nữ nên cảnh giác với ung thư vú khi bước sang ngưỡng tuổi 30

Phụ nữ nên cảnh giác với ung thư vú khi bước sang ngưỡng tuổi 30

Ở Việt Nam ung thư vú đứng hàng đầu về tỷ lệ mắc và đứng thứ 3 về tỷ lệ tử vong ở nữ giới. Thống kê của tổ chức Ghi nhận ung thư toàn cầu (Globocan) năm 2018, mỗi năm nước ta có 164.671 ca mắc mới ung thư, trong đó ung thư vú là 15.229 ca (chiếm tỷ lệ 9,2%).

Phụ nữ ở tất cả các độ tuổi, sắc tộc đều có thể mắc phải ung thư vú. Ngoài ra, những người bị đột biến ADN tế bào vú khiến cho các tế bào bị mất kiểm soát trong quá trình phát triển cũng rất dễ mắc phải bệnh này.
 
Theo TS.BS Nguyễn Đức Phúc, Bộ phận Ung thư, Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, hiện nguyên nhân gây ra ung thư vú vẫn chưa rõ ràng. Tuy nhiên, các nhà khoa học biết được rằng bệnh xảy ra khi một số tế bào vú bắt đầu phát triển bất thường và phân chia nhanh hơn so với các tế bào khỏe mạnh khác. Các tế bào trên tích tụ tạo thành một khối u có thể lây lan đến mô lân cận hoặc những bộ phận khác của cơ thể.

Ước tính có khoảng 5 - 10% ca ung thư vú có liên quan đến đột biến gen và mang tính di truyền. Những yếu tố di truyền được xác định gồm gen 1 (BRCA1) và gen 2 (BRCA2) là tác nhân gây ung thư. Nếu trong gia đình mẹ bị ung thư vú, thì con gái và cháu gái thường có nguy cơ ung thư vú cao hơn.
 
Ung thư vú ở giai đoạn đầu thường không gây đau đớn và có thể không có triệu chứng gì. Khoảng 10% bệnh nhân không bị đau, không thấy khối u hoặc bất kỳ dấu hiệu nào của bệnh. Tuy nhiên, nếu khối u vú phát triển, bệnh có thể gây ra các triệu chứng như: vú bị sưng, biến dạng hay kích ứng da vùng vú hoặc vùng dưới cánh tay, xuất hiện khối u cứng ở vú, vú bị thay đổi kích thước hoặc hình dạng, quầng vú hoặc núm vú có sự thay đổi màu sắc hay các thay đổi khác, chẳng hạn như xuất hiện nếp nhăn hoặc đóng vảy, vú tiết dịch, bị thụt vào trong hoặc có cảm giác đau.
 
Theo BS Nguyễn Đức Phúc, nguy cơ mắc bệnh ung thư vú ở nữ giới có thể tăng cao do các yếu tố: tuổi tác: càng lớn tuổi, nguy cơ bị bệnh càng cao. Tiền sử gia đình: nếu mẹ, con gái hoặc chị gái bạn bị ung thư vú, khả năng mắc bệnh sẽ lớn hớn. Đột biến gen di truyền BRCA1 và BRCA2. Bắt đầu chu kỳ kinh nguyệt sớm, mãn kinh muộn. Sinh con lần đầu khi lớn tuổi hoặc chưa bao giờ sinh con. Dùng các loại hormone kết hợp như estrogen và progestin để điều trị các triệu chứng mãn kinh. Tiền sử ung thư biểu mô tuyến vú hoặc tiểu thùy tuyến vú. Ngoài ra còn có các yếu tố khác có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú như: uống thức uống có cồn, béo phì hay từng chụp nhũ ảnh…
 
Để điều trị ung thư vú, bác sĩ sẽ lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp dựa trên các yếu tố sau: loại ung thư vú; giai đoạn bệnh; kích cỡ khối u; sự nhạy cảm của tế bào ung thư với hormone; tình trạng sức khỏe chung của bệnh nhân…
 
Có 5 phương pháp điều trị bao gồm: phẫu thuật, xạ trị, hóa trị, liệu pháp hormone, liệu pháp điều trị trúng đích, kháng thể đơn dòng…
 
Bệnh nhân ung thư vú có thể được chỉ định một hoặc nhiều phương pháp kết hợp. Sau khi điều trị, thông thường bệnh nhân ung thư vú thường được hẹn tái khám sau 1 tháng, 3 tháng hay 6 tháng tùy theo phác đồ điều trị. Những kiểm tra thường được tiến hành bao gồm: khám trực tiếp, xét nghiệm máu, chụp Xquang thẳng vùng ngực (hay gặp di căn phổi với bệnh nhân ung thư vú), siêu âm ổ bụng và phần phụ (hay gặp di căn gan với bệnh nhân ung thư vú)…
 
TS.BS Nguyễn Đức Phúc nhấn mạnh, chế độ dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng đối với bệnh nhân ung thư vú trong việc kéo dài cuộc sống và cải thiện chất lượng sống cho người bệnh ung thư. Có đến 50 - 80% người bệnh ung thư bị sụt cân và 20% người bệnh ung thư chết do suy dinh dưỡng nặng. Bệnh nhân ung thư vú trong thời gian điều trị nên ăn uống đủ chất để có sức khỏe đáp ứng được những yêu cầu của phác đồ điều trị và đặc biệt trong các đợt truyền hóa chất, phẫu thuật, xạ trị cần tăng cung cấp các chất dinh dưỡng cao trong khẩu phần, tăng các vitamin và vi chất dinh dưỡng, đặc biệt các thực phẩm có chứa nhiều chất chống ôxy hóa. Các chất xơ và các chất chống ôxy hóa nên cung cấp nhiều trước và sau các đợt điều trị nhằm giảm thiểu việc làm giảm tác dụng của các đợt truyền hóa chất, xạ trị… Các bữa ăn cũng nên được ăn trước hoặc sau 4 giờ trước hoặc sau khi điều trị. Nên chọn các món ăn, các thực phẩm theo sở thích của bệnh nhân, chế độ ăn lúc đầu cần cung cấp nhiều năng lượng được cung cấp từ tinh bột sau đó tăng dần lượng đạm, chất xơ nhằm đảm bảo tiêu hóa tốt cho bệnh nhân…Trong quá trình điều trị, nên nghe theo lời khuyên của bác sĩ. Không nên tự động uống các loại thuốc lá, thuốc nam hay sử dụng các loại thuốc, thực phẩm chức năng không có chỉ định của bác sĩ.
 
Đặc biệt, việc tầm soát và phát hiện sớm ung thư có ý nghĩa rất lớn trong điều trị. Nếu được phát hiện ở giai đoạn đầu có thể chữa khỏi bệnh. Vì vậy, TS.BS. Nguyễn Đức Phúc khuyến cáo, phụ nữ trên 30 tuổi nên thường xuyên tự khám để kiểm tra vú: tay phải kiểm tra vú trái, tay trái kiểm tra vú phải. Thời gian thích hợp để tự kiểm tra là ngay sau kỳ kinh, vú đã mềm. Sờ nắn xem có khối u, cục và nặn đầu nhũ hoa xem có ra dịch, ra máu…Các phương pháp được áp dụng trong chương trình tầm soát ung thư vú: tự khám vú; khám lâm sàng tuyến vú; siêu âm tuyến vú; nhũ ảnh; xét nghiệm cận lâm sàng như chọc hút bằng kim nhỏ (FNA – Fine Needle Aspiration) và sinh thiết...

Nguồn: 

http://soyte.hanoi.gov.vn/vi/news/benh-khong-lay/phu-nu-nen-canh-giac-voi-ung-thu-vu-khi-buoc-sang-nguong-tuoi-30-10077.html

http://daidoanket.vn/cac-benh-dich/tren-15000-ca-mac-moi-ung-thu-vu-moi-nam-tintuc449543

Tổ Truyền thông