Cấp cứu khẩn cấp

024 3834 3181

Thông tin thuốc - Bản tin Dược Lâm Sàng số 6 năm 2024

Thông tin thuốc - Bản tin Dược Lâm Sàng số 6 năm 2024

Khoa Dược xin lược dịch kết quả của nghiên cứu đường dùng khác của tranexamic acid trong cầm máu sau phẫu thuật lấy thai, tiếp nối bản thông tin thuốc số 09 năm 2022. Bài nghiên cứu được đăng trên tạp chí BJOG vào tháng 4/2023.

Đường sử dụng thuốc thay thế cho tranexamic acid (TXA) trong chảy máu sản khoa (WOMAN-PharmacoTXA trial): một nghiên cứu ngẫu nhiên và nghiên cứu dược lý trong phẫu thuật lấy thai.

Mục tiêu: nghiên cứu về tính an toàn, hiệu quả và dược lực học của TXA khi sử dụng qua đường tiêm tĩnh mạch (IV), đường tiêm bắp (IM) và đường uống trên phụ nữ mang thai (PNMT).

Thiết kế: nghiên cứu ngẫu nhiên, không mù.

Địa điểm: Bệnh viện ở Pakistan và Zambia.

Đối tượng: PNMT sinh con thông qua đẻ mổ.

Phương pháp: các PNMT đã được chia thành các nhóm sử dụng TXA ngẫu nhiên: 1g IV, 1g IM, 4g đường uống hoặc không sử dụng với tỉ lệ 1:1:1:1. TXA được cho sử dụng khoảng 1 giờ (± 30 phút) trước phẫu thuật lấy thai. Các phản ứng có hại (ADRs) trên PNMT và trẻ sơ sinh được ghi nhận. Nồng độ TXA trong máu được ghi nhận và nồng độ qua thời gian được nghiên cứu thông qua dược động học quần thể. Mối liên quan giữa nồng độ thuốc và D-dimer được xem xét thông qua dược động học quần thể.

Chỉ số nghiên cứu chính: nồng độ TXA trong máu của PNMT.

Kết quả: trong 120 PNMT đồng ý tham gia nghiên cứu về độ an toàn, không có ghi nhận về ADRs trên PNMT hay trên trẻ sơ sinh. Nồng độ TXA trong 755 mẫu máu của mẹ và 87 mẫu máu cuống rốn đã được miêu tả bằng mô hình hai ngăn với một ngăn được nhận thuốc với tần suất không đổi. Nồng độ cao nhất của TXA trong máu của PNMT lần lượt là 46.9, 21.6 và 18.1 mg/L, và trên trẻ sơ sinh là 9.5, 7.9 và 9.1 mg/L cho các đường sử dụng IV, IM và đường uống. Nồng độ TXA được mô hình hóa với tác dụng ngăn ngừa sự sản sinh của D-dimer. Nồng độ ức chế tối đa một nửa (IC50) của TXA với D-dimer là 7.5 mg/L, đã đạt được sau 2.6, 6.4 và 47 phút lần lượt với các đường dùng IV, IM và đường uống.

Kết luận: TXA đường IM và uống đều được dung nạp tốt. TXA đường uống cần khoảng 1 giờ để đạt được nồng độ tác dụng tối thiểu, và sẽ không phù hợp cho các trường hợp khẩn cấp. TXA đường IM sẽ đạt được nồng độ tác dụng tối thiểu trong 10 phút, và có thể được sử dụng thay thế cho đường IV.

Nhận xét: Nghiên cứu có một vài điểm mạnh như: việc lựa chọn ngẫu nhiên bệnh nhân vào các nhóm để nghiên cứu về độ an toàn trên PNMT đã được làm mù tốt, và đặc điểm các bệnh nhân đều khá tương đồng. Đây cũng là nghiên cứu đầu tiên đánh giá về dược động và dược lực của TXA trên phụ nữ mang thai và thẩm thấu qua nhau thai cho trẻ sơ sinh. Một số điểm yếu trong nghiên cứu có thể kể đến như: đường dùng không được làm mù có thể làm ảnh hưởng đến kết quả; đây là nghiên cứu lớn nhất về đường dùng thay thế, tuy nhiên số lượng bệnh nhân trong nghiên cứu vẫn còn hạn chế.

Nguồn: Shakur-Still H, Roberts I, Grassin-Delyle S, Chaudhri R, Geer A, Arribas M, et al. Alternative routes for tranexamic acid treatment in obstetric bleeding (WOMAN-PharmacoTXA trial): a randomised trial and pharmacological study in caesarean section births. BJOG. 2023;130(10):1177–1186. https://doi.org/10.1111/1471-0528.17455